Thứ Hai - Ngày 5 tháng 7, 2021
Tối hôm qua là lần đầu tiên chúng tôi 
ngủ ở một khu cắm trại. Trên đường đi tất cả những tiện nghi như tủ 
lạnh, sưởi, nước nóng đều được dùng từ bình ga. Bình ga và bình nước của
 xe không lớn lắm, chỉ tiện dụng cho việc nấu ăn và vệ sinh nhẹ. Đến khu
 cắm trại, chúng tôi sẽ có thể dùng điện để xạc cho các dụng cụ điện 
tử như điện thoại, pin cho máy hình, laptop, power bank... và một điều 
quan trọng nữa là tắm nước nóng.
Nơi
 chúng tôi ở có tên là Hótel Breiðavík cách vách núi Látrabjarg khoảng 
12 cây số. Ngoài khu cắm trại, Hótel Breiðavík  có cả nhà trọ với 42 
phòng ngủ cùng 1 tiệm ăn và chỉ mở cửa từ đầu tháng Năm cho đến cuối 
tháng Chín rồi đóng cửa trong thời gian còn lại. Điều này dể hiều vì 
phần lớn du khách đến đây đều để xem puffin và đó là thời gian puffin về
 Látrajarg. Du khách đến Hótel Breiðavík còn có thể tự hào là mình đã 
đến nơi có nhà cửa và cư dân ở cực Tây của Âu Châu.
Hai người chủ của Hótel Breiðavík là ông bà Birna Mjöll Atladóttir and Keran Stuelend Ólason. Cả hai đều là dân trong vùng và họ đã trông coi khách sạn này từ năm 1999. Nói
 chuyện với bà chủ, chúng tôi được biết thêm là đoạn đường 612 dẫn vào 
khu này đóng cửa vào mùa đông vì tuyết dày đặc và đường rất khó đi, có 
những năm tuyết lên cao hơn nóc nhà. Chúng tôi lo lắng hỏi bà làm sao có
 đủ thức ăn cho cả mùa đông dài đăng đẳng, bà cho biết đã sống ở đây 
mấy chục năm nên đã quen trong việc chuẩn bị cho thời tiết khắc nghiệt 
cùa vùng này. Nghe xong cả đám phục lăn phục lóc nhất là dân Cali ít khi
 thấy tuyết! 
Chúng tôi dự định sáng 
hôm nay sẽ trở lại Látrabjarg đề chụp hình tiếp mấy chú chim puffin. Nói
 vậy chứ đâu có dễ gì rời Hótel Breiðavík ngay. Trên đường ra cổng cả 
nhóm ngừng lại chụp hình nhà thờ Breiðavíkurkirkja, Nhà thờ này được xây
 dựng vào năm 1900 với những điểm tương tự như nhà thờ ở Faroe Islands. 
Sau này tôi mới biết Faroe Islands và Iceland đều đến từ gốc Viking 
nên ngay cả ngôn ngữ Iceland cũng có nhiều điểm giống như ngôn ngữ của 
Faroe Islands.
 
|  | 
| Hình 3.1 - Nhà thờ Breiðavíkurkirkja | 
Khu vực Breiðavík cũng như những vịnh khác ở miền Tây Bắc của Iceland 
trước đây được xử dụng như những nơi sinh hoạt của thuyền buồm hay 
thuyền đánh cá. Những sinh hoạt đó còn được lưu lại ở nơi đây qua hình 
ảnh của những bờ đá hoang phế. 
 
|  | 
| Hình 3.2 - Nhà thờ Breiðavíkurkirkja và dấu tích của những sinh hoạt đánh cá trước đây bây giờ đã trở thành hoang phế
 | 
 Vì mải mê với mấy chú chim puffin, chúng tôi không ai để ý là gần bãi 
đậu xe và trước khi lên dốc để xem puffin, chúng tôi đã đi ngang qua ngọn 
hải đăng Bjargtangar được xây vào năm 1913. Kiến trúc của ngọn hải đăng 
này không có gì đặc biệt, nó chỉ là một tòa tháp màu trắng, cao khoảng 6m 
nhưng vách đá của Látrabjarg đã cho nó một độ cao tổng quát là 60m để có
 thể hướng dẫn thuyền bè cách đó đến 16 dặm.
 
|  | 
| Hình 3.3 - Đường lên dốc để xem puffin | 
Chim puffin ở Iceland thuộc giống 
Atlantic puffin là loài chim xinh đẹp và nhỏ nhất trong ba loại chim 
puffin. Atlantic puffin sống ở biền Bắc Đại Tây Dương, còn hai loại kia 
lại sống ở miền Bắc Thái Bình Dương. Tuy nhỏ nhưng chim puffin sống rất 
lâu, trung bình đến 30 năm. 
 
Iceland
 là nơi chim puffin tụ về đông nhất, mỗi năm có khoảng 10 triệu con
 chọn những vách đá hay những hòn đảo ở đây làm nơi sinh sản và nuôi cho
 đến lúc chim non có thể tự lo lấy chính mình. Khoảng đầu tháng Tư, 
puffin đã bắt đầu bay về tổ cũ và cuối tháng 8 sẽ cùng chim con bay ra 
biển khơi. Chim trống và chim mái không có điểm gì khác biệt, chim trống
 chỉ hơi lớn hơn chim mái một chút xíu, điều này chỉ có thể nhận thấy 
khi chúng đứng gần nhau.
 
|  | 
| Hình 3.4 - Chim Atlantic puffin | 
Chim puffin rất chung thủy, chim trống và chim mái sống cùng với 
nhau cả đời. Mỗi năm, cả hai trở về tổ cũ trong mùa sinh sản. Tổ chim 
thường nằm trong vách đá hoặc đào sâu trong đất mềm. Đường hầm dẫn đến 
tổ chim có thể dài cả thước. Mỗi năm chim mái chỉ đẻ một quả trứng duy 
nhất.
 
|  | 
| Hình 3.5 - Hạnh phúc cả đời bên nhau | 
|  | 
| Hình 3.6 - Một vách đá nơi chim puffin làm tổ | 
Một đặc điểm của chim puffin là cả chim trống lẫn chim mái đều chung sức
 xây tổ, cả bố và mẹ sẽ thay phiên ấp trứng và tìm mồi cho chim con ăn. 
Hang của puffin được lót bằng vật liệu như cỏ, lá và lông chim nhưng đôi
 khi cũng không lót gì hết.
 
|  | 
| Hình 3.7 - Mang hoa lá về lót tổ | 
 Để tìm mồi cho chim non, chim puffin bố và mẹ sẽ lặn xuống biển để tìm 
những loại cá biển nhỏ (sand eels, herring, hake và capelin). Tuy mỗi 
lần lặn chỉ dài có 20 đến 30 giây nhưng puffin nổi tiếng là có thể ngậm 
khoảng 10 con cá nhỏ đem về nuôi chim con. Với cái mỏ đặc biệt, puffin 
có thể giữ cá đã bắt ở sát vòm mỏ trong khi mở ra bắt tiếp mồi.
 |  | 
| Hình 3.9 -Chuẩn bị bay đi 
 | 
 |  | 
| Hình 3.10 - Phóng xuống biển để đi săn mồi | 
Chim con được bố và mẹ mang thức ăn về nhiều lần trong ngày nên chỉ 
khoảng 6-7 tuần sau là đã lớn bằng bố mẹ. Khi chim con đủ lớn, chúng sẽ 
bay ra biển cả và sẽ ở đó trong suốt 3-4 năm liền.
 |  | 
| Hình 3.11 - Gia đình puffin, bố mẹ và chim con | 
 Một loại chim biển khác rất đông ở Iceland là chim razorbill. Đây là một loài 
chim đen tuyền với phần bụng màu trắng, không được đẹp lắm, nhìn mãi mới
 thấy mắt của nó. Điều làm cho chim này đặc biệt đối với tôi là vì chúng
 chỉ sống ở xứ lạnh, từ vĩ tuyến 47 trở lên Bắc Cực, nên chỉ có ở Canada
 và một vài nước Âu Châu khác. Trong số đó, hơn 60% chim razorbill được 
tìm thấy ở Iceland. Chim razorbill có điểm giống như puffin là chung 
thủy, 1 vợ 1 chồng suốt cuộc đời.
 
|  | 
| Hình 3.12 - Chim razorbill | 
|  | 
| Hình 3.13 - Chim razorbill họp thành đàn ở Latrabjarg trong mùa sinh sản | 
|  | 
| Hình 3.14 - Có đôi | 
|  | 
| Hình 3.15 - Rời tổ | 
Trước khi rời Látrabjarg, tôi đi lên đỉnh đồi nhìn xuống vách đá nơi 
hàng ngàn con chim đang làm tổ, phía xa dưới chân đồi bên tay trái là 
ngọn hải đăng Bjargtangar, cách đó không xa là chiếc motorhome của chúng
 tôi. Ở đây, tôi được thấy thêm hai loại chim biển nữa là fulmar và 
kittiwake. Hai loại chim này khá giống nhau. Tôi phải mất thật lâu mới 
nhận ra được sự khác biệt của chúng qua cái mỏ và màu lông cánh.
 
|  | 
| Hình 3.16 - Quang cảnh từ một đỉnh đồi ở Latrabjarg | 
|  | 
| Hình 3.17 - Chim fulmar và kittiwave làm tổ trên sườn núi cao | 
|  | 
| Hình 3.18 - Chim fulmar | 
|  | 
| Hình 3.19 - Chim kittiwake | 
Khoảng 2 giờ trưa chúng tôi mới rời 
Látrabjarg để lên đường đến địa danh kế tiếp và dĩ nhiên cũng như thường
 lệ là chúng tôi sẽ bị lạc lối vào vài chỗ rồi mới đến được nơi mình 
muốn đến. Đi khoảng nửa tiếng, chúng tôi ghé thăm bảo tàng viện Hnjótur.
 Đây là một bảo tàng viện của tư nhân với những di vật liên quan đến đời
 sống trong vùng và một số sự kiện lịch sử. 
Ông
 Egill Olafsson khi còn sống đã dành khá nhiều thì giờ để sưu tập nhiều 
vật phẩm khá thú vị. Bảo tàng viện này có hai phần, trong nhà với những 
chứng tích nói đến đời sống nông nghiệp ở nơi đây, bên ngoài là những di
 vật về hàng hải và hàng không. Chúng tôi chỉ xem những vật phẩm trưng 
bày ở bên ngoài.
 
Thật
 là bất ngờ khi chúng tôi thấy một chiếc máy bay Douglas C-117D ở đây. 
Chiếc máy bay đặc biệt này mang số 17191, bây giờ chỉ còn thấy được ba 
số cuối.. Đây là một chiếc máy bay cũ chế tạo vào năm 1944, từng được xử
 dụng trong căn cứ Hải quân Hoa Kỳ ở Keflavik vào thời gian đóng quân ở 
Iceland để bảo vệ các tuyến đường tiếp tế quan trọng của Bắc Đại Tây 
Dương trước sự hoành hành của quân đội Đức Quốc Xã vào Đệ Nhị Thế Chiến.
 
Không
 biết ông Egill Olafsson làm thế nào để được tặng chiếc máy bay này 
nhưng việc đưa nó từ Keflavik đến đây cũng không phải là chuyện dễ dàng.
 Người ta phải tháo nó ra thành nhiều phần rồi vận chuyển bằng ba xe tải
 lớn trên một đoạn đường dài hơn 400km qua những khúc đường đồi nhỏ hẹp,
 đầy sỏi đá và quanh co để đến đây vào năm 2002.
 |  | 
| Hình 3.20 - Chiếc máy bay C-117D của Hải Quân Hoa Kỳ | 
 |  | 
| Hình 3.21 - Chiếc máy bay C-117D với số danh 17191 | 
Ngoài chiếc Douglas C-117D, bảo tàng 
viện này còn có một vài chiếc máy bay khác. Trong số đó có một chiếc máy
 bay của Nga Antonov AN-2. Chiếc máy bay này trên đường đi từ Nga đến Mỹ
 nhưng nửa đường bị hỏng và bị bỏ lại ở Reykjavik. Ông Egil mướn một 
người phi công Nga lái chiếc máy bay này bay về hướng Tây, đáp xuống một
 bãi cát sát bờ biển rồi sau đó được kéo qua đầm lầy và đồng cỏ về đây. 
Trước đây nó được để bên ngoài nhưng bây giờ đã nằm trong nhà chứa máy 
bay cũ.
 
Xem
 xong mấy chiếc máy bay, chúng tôi đi về phía trước nơi có hai 
chiếc thuyền đánh cá cũ. Trên đồi phía xa xa là đài tưởng niệm để vinh 
danh những người thủy thủ đã mất mạng trên vùng biển xung quanh 
Látrabjarg và các vách đá cực Tây của Iceland trong thế kỷ 20 cũng như 
những người dân địa phương đã quên mình để cứu họ thoát khỏi nanh vuốt 
của biển lạnh. Một số thủy thủ đã sống sót nhưng nhiều người cũng đã bỏ 
mạng trong vùng nước không khoan nhượng hoặc dưới chân các vách đá cheo 
leo.
 
Tuy bảo tàng viện này nhỏ thôi nhưng cũng đáng khen ngợi cho công sức của một cá nhân. 
 
|  | 
| Hình 3.22 - Hai chiếc thuyền đánh cá cũ 
 | 
|  | 
| Hình 3.23 - Đài tưởng niệm các thùy thù đã bỏ mình trong biển cả. Mỗi viên đá chung quanh đài tưởng niệm nói lên câu chuyện của một ngư dân và số phận của họ.
 | 
Rời bảo tàng viện Hnjótur, chúng tôi tiếp tục đi trên đường 612 rồi rẽ 
vào đường 62. Bắt đầu khúc đường này là một đoạn đường qua núi với những
 khúc quẹo rất gắt.
 
|  | 
| Hình 3.24 - Những khúc quanh thật gắt trên đường 62 | 
 Trên đoạn đường này có một bức tượng bằng đá mà lúc đi chúng tôi đã thấy
 nhưng không ngừng lại vì trời đã tối mà sương mù lại xuống quá thấp. 
Hôm nay có thì giờ nhiều hơn và trời lại quang đãng một chút nên chúng 
tôi ghé lại xem. Tượng đá này có tên là Kleifabúi Stone Man. Kleifaheiði
 là khúc đường băng qua núi nối liền hai vùng Bardastrond và 
Patreksfjordur. Thực hiện con đường này hơn 70 năm trước là một kỳ công 
vì nó đòi hỏi rất nhều công sức khi công nhân chỉ có những dụng cụ thô 
sơ làm bằng tay. Những người công nhân làm đường đã từ lâu có truyền 
thống là dựng một tượng đài sau khi hoàn thành một đoạn đường khó khăn. 
Kleifabúi (có nghĩa là cư dân của Kleif) được dựng vào năm 1947 bằng 
những viên đá tự nhiên chồng chất lên nhau thành hình người. Tượng 
Kleifabúi được xem như một biểu tượng để bảo vệ cho những người đi trên 
đoạn đường này.
|  | 
| Hình 3.25 - Tượng Kleifabúi | 
|  | 
| Hình 3.26 - Một vùng sỏi đá | 
 Trước khi rời chỗ mướn xe, người ta 
dặn chúng tôi khi nào đi ngang qua cây xăng dù còn khá nhiều cũng nên 
ngừng đổ thêm xăng vì có những đoạn đường phải đi đến 90km mới có một 
trạm đổ xăng. Anh Tuấn rất cẩn thận trong chuyện này nên dù còn hơn nửa 
bình và đoạn đường đến thác Dynjandi chỉ khoảng 100km, anh vẫn ghé đổ 
xăng cho đầy khi thấy trạm xăng N1. Người ta cũng cho chúng tôi biết là 
nên đổ xăng ở trạm xăng N1 hay Olis vì đây là hai chỗ có giá phải chăng.
 Ở Iceland, các trạm xăng chỉ có một loại xăng với chỉ số 95 và bên cạnh
 đó là dầu diesel, trong khi đó ở California xe của tôi chỉ chạy xăng 
với chỉ số octane có 87.
 
Những
 cây xăng lớn thường có một tiệm ăn nho nhỏ với những mặt hàng tiện 
dụng cho người đi đường. Còn  những cây xăng nhỏ thì không có ai đứng 
trông, tất cả các dịch vụ đều trả bằng thẻ tín dụng. Tuy vậy chỗ nào 
cũng có vòi nước và chổi để rửa xe miễn phí. Một điều chắc chắn là ở 
Iceland không sợ chuyện hạn hán hay khan hiếm nước với hàng ngàn thác 
nước và suối cùng với những tảng băng tuyết vạn niên.
 
Thêm
 một việc nữa là nước ở Iceland thật trong sạch, không phải lo sợ chuyện
 ngộ độc vì nước. Trong suốt thời gian ở đây, mọi người chúng tôi cũng 
như tất cả những người khác đều uống nước lấy thẳng từ các vòi nước mà 
không cần phải nấu sôi.
 
|  | 
| Hình 3.27 - Một cây xăng N1 | 
Đi hết đường 62, chúng tôi rẽ vào 
bên trái để vào đường 60. Khúc đường này còn khó khăn hơn đường 62 vì 
đường hẹp và sỏi đá liên tiếp văng lên đập vào thành xe. Lúc đầu những 
người ngồi phía sau chốc chốc lại lo lắng khi nghe một tiếng động lạ tai
 của một cục sỏi bự văng vào xe. Khi có xe đi ngược lại, cả hai bên đều 
sẽ nhắm chừng nên ngừng hay chạy chậm lại để xem có qua được cùng lúc 
không hay nhường cho một xe qua trước.
 
Bất
 ngờ lúc nào cũng có thể xảy đến và không có ai có thể đoán trước được, 
đó là những gì sắp xảy đến với chúng tôi. Chỉ còn khoảng hai ba chục cây
 số nữa là đến thác Dynjandi, nhóm chúng tôi ngồi phía sau tán dóc hết 
chuyện này đến chuyện kia, lâu lâu nhìn qua cửa sổ xem phong cảnh bên 
đường. Mọi việc đang diễn tiến đều đặn, bỗng cả nhóm nghe một tiếng động
 thật to đến từ bên trái của xe và chiếc xe hơi rung rinh. Anh Tuấn 
ngừng xe lại và cho cả nhóm biết là xe vừa bị đụng. Chiếc xe bên kia 
cũng ngừng lại. Sau khi xem xét, xe của chúng tôi bi hư kính chiếu hậu 
phía người lái, miếng kính lớn bị lung lay nhưng vẫn dính vào hộp kính. 
Còn kính chiếu hậu của xe bên thì bị hư hoàn toàn và rớt hẳn ra.
Người
 ngồi bên xe kia là hai cậu thanh niên trẻ, một cậu mới 17 tuổi hết hè 
sẽ vào lớp 12, còn cậu thứ hai thì lớn hơn một chút đang học đại học. 
Hai cậu này đang làm hè ở công ty Sjótaekni, một công ty làm dịch vụ về 
việc nuôi thủy sản, đưa dây cáp ngầm, sửa chữa bến cảng và các bộ phận 
khảo sát,... Hai cậu nhận là mình đã chạy hơi nhanh, không tránh kịp nên
 chạy sát xe của chúng tôi làm hư hại kính chiếu hậu, nếu không xe của 
hai cậu sẽ rớt xuống chỗ trũng bên đường. Hai cậu sau khi làm việc xong,
 chạy đến thành phố cách chỗ làm khoảng 3 tiếng, mua một số thức ăn cho 
họ cũng như cho các bạn đồng nghiệp. Đi và về mất khoảng 6 tiếng nhưng 
sẽ rẻ hơn nhiều và cũng có nhiều lựa chọn hơn.
Trong
 chuyến đi này, anh Tuấn bàn với mọi người mua tất cả những bảo hiểm mà 
hãng cho mướn xe có sẵn, kể cả chuyện lái xe đi vào những đường có sỏi 
đá,  nên chúng tôi không phải lo lắng về phí tổn hư hại của xe. Thêm nữa
 lỗi lần này là của xe bên kia. Làm giấy tờ xong, chúng tôi và hai cậu 
bé này từ giã nhau, mỗi bên đi về một hướng. Trước khi đi, anh Tuấn nhắc
 nhở hai cậu đừng chạy nhanh quá.
|  | 
| Hình 3.28 - Ngừng xe trên đường sau khi bị đụng xe | 
|  | 
| Hình 3.29 - Cùng nhau làm giấy tờ | 
Tiếp tục lên đường, nửa tiếng sau chúng tôi đã có mặt ở thác Dyjandi. Đây là ngôi thác lớn nhất ở phía Tây của Iceland. Chiều cao của thác này lên đến 100m. Lúc chúng tôi đến đã quá 7 giờ tối, mưa lất phất vài giọt, nhưng vẫn có một chút mây xanh. Ở bãi đậu xe chỉ thưa thớt vài chiếc kể cả xe của chúng tôi. Nếu chúng tôi đi trễ hơn vài tuần chắc chắn nơi này sẽ đông hơn nhiều khi du khách biết Iceland đã mở cửa trở lại cho mọi người viếng thăm. Cả nhóm tay cầm máy ảnh, tay cầm tripod đi liền về phía thác để chụp hình. Chúng tôi chụp hình từ thác thấp nhất tức là thác Baejarfoss rồi đi lần lên phia trên. Thường khi chụp những dòng nước chảy, người ra hay dùng phương pháp phơi sáng nên mất thì giờ nhiều hơn. Chụp được nửa đường, sương mù kéo xuống nhiều hơn và mưa cũng nặng hột hơn. Chúng tôi quyết định ngưng chụp để về lại xe chuẩn bị cho bữa cơm tối.
 
|  | 
| Hình 3.29 - Thác Dynjandi | 
 Sau khi dùng cơm tối xong, chúng tôi dời căn nhà lưu động của mình ra một chỗ trống ở gần đó để ngủ qua đêm rồi sáng mai trở lại chụp tiếp. Đi trong chuyến này, tôi mới thật sự thấy được sự tiện lợi của motorhome ở  những điều kiện như thế này. Chúng tôi tiết kiệm được rất nhiều thì giờ vì không phải chạy đua với thời gian để tìm chỗ ngủ hay tiệm ăn trước giờ đóng cửa.
Trần Dzung 
 
Loạt hình nầy đẹp quá Dzung ơi. Bravo Dzung !!!
ReplyDeleteTan Truong.
Em cám ơn anh Tần!
DeleteDzung